Em có về quê nội cùng
anh
Ngày xủi mả làng mình đông vui lắm
Đất trời cuối năm êm đềm, đằm thắm
Người bốn phương nhớ nguồn cội tìm về...!
Ngày xủi mả làng mình đông vui lắm
Đất trời cuối năm êm đềm, đằm thắm
Người bốn phương nhớ nguồn cội tìm về...!
Không biết có từ bao giờ, xủi mả đã trở thành
một nét văn hóa của Làng La Hà quê tôi nói riêng và một số khu vực ở tỉnh Quảng
Bình nói chung.
Ở
quê tôi, mọi người vẫn hay gọi là đi “xủi mả”. Mà như tôi biết thì chữ “xủi mả”
cũng như “chạp mả” thường là lễ cúng cuối năm, vào tháng chạp nên gọi tên như
vậy.
Với
Lễ này, có người bảo tảo mộ, có người bảo chạp mả. Nếu dùng chữ “tảo mộ” thì
tôi chập chờn mấy câu thơ của cụ Tiên Điền, “Thanh minh trong tiết
tháng ba/ lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”. Vậy tảo mộ là lễ diễn ra vào tiết
mùa xuân, cùng với hội đạp thanh.
Tôi
thiển nghĩ, chắc đây chỉ là vấn đề phương ngữ trong cách gọi tên mà thôi. Thật
ra dù gọi “tảo mộ”, “chạp mả” hay ở một số nơi gọi chệch thành “xủi mả” thì
cũng là dịp đi thăm viếng mồ mả tổ tiên, người thân.
Con
cháu trong Làng dù đang làm ăn sinh sống ở đâu cũng nhớ ngày giổ của dòng họ để
trở về. Trước là nhớ về tổ tiên, ông bà. Sau là để gặp gở, trò chuyện hàn
huyên công việc trong một năm. Từ đó thắt chặt thêm mối thân tình của con cháu
trong dòng họ cũng như mọi người được thông tin đầy đủ hơn các thành viên
trong dòng họ. Đó là điều rất hay của Lễ xủi mả.
Buổi
sáng, con cháu trong họ (chỉ con trai đã thành niên) tập trung sớm ở từ đường.
Tất cả mang theo cuốc, rựa và một nắm nhang. Sau khi các Cụ vào khấn
lễ cáo xong là toàn thể kéo nhau lên bãi tha ma. Lễ cáo buổi sáng thường chỉ
đơn giản, chỉ để báo cáo với tiên tổ là hôm nay cho phép con cháu lên tân trang
mấy ngôi mộ. Trưởng họ sớ cáo từ giấy bổi màu vàng, ông dán lên một chiếc khung
có chân đế rồi đặt lên bàn thờ.
Trước
tiên, tất cả con cháu lên lăng ngài Thuỷ Tổ (ông Tổ họ mai là người đầu tiên
khai khẩn lập làng La Hà). Bác trưởng họ thắp nhang xong thì con cháu dùng cuốc
tỉa cỏ trên mộ, dùng rựa chặt cây bụi xung quanh cho quang đãng. Mỗi năm đến
chạp, thích nhất là thấy các bác các chú có mặt đông đủ ở lăng ngài. Mấy ông cụ
thì mặc áo dài chít khăn đóng rất cổ kính. Trong khi đó các cụ sẽ nhắc lại
chuyện của tiền nhân, có người này làm quan người kia làm tước. Nghe thấy vui
hẳn vì kể ra dòng họ mình cũng giỏi ra phết.
Từ
lăng ngài Thuỷ Tổ, con cháu tản ra đi chăm chút mấy ngôi mộ của người thân. Có
những ngôi mộ bị trâu bò húc mõm vào sứt mẻ. Dùng cuốc nhát miếng cỏ đặt lên là
tròn trịa lại. Có ngôi mộ cây trinh nữ bò lên phủ kín. Trinh nữ ở quê tôi gọi
là cây cỏ thẹn (xấu hổ), đơn giản vì chạm vào nó thì nó cụp lá lại như thẹn
thùng. Ngán nhất là những ngôi mộ như thế này, chân lỡ mà chạm phải xấu hổ thì
đau điếng cả lên.
Sau
khi dọn dẹp tu bổ, ngôi mộ trông an lành hơn. Khi ấy sẽ thắp lên một nén nhang,
người dưới kia chắc cũng cảm thấy ấm áp. Thương nhất là mấy ngôi mộ không có
người thân, hoặc họ ở xa không về được. Mấy bác nhủ thắp nhang lên cho người ta
bớt tủi. Ở Phụ Cồn, mộ vô chủ như vậy thì nhiều vô kể, nên chi cứ mỗi lần xuống
đó là tôi thấy hoang hoải.
Xong
việc dọn dẹp phát quang nghĩa địa, con cháu lại tập trung về nhà thờ họ hoặc
nhà gia trưởng. Lúc ấy cũng sắp đến giờ ngọ rồi. Các cụ bắt đầu gióng chiêng
trống, cử lễ chính thức. Bác trưởng tộc khấn xong, rót ba lần nước trong, trà,
rượu. Kính cẩn đọc sớ cáo. Con cháu xếp hàng hai bên trật tự để nghe. Đọc xong
sớ, bác gập đầu ba cái, tờ sớ đặt lên lại trên bàn thờ. Mấy hồi chiêng trống
liên tiếp cứ như để đệm nhịp cho con cháu trong họ vái lạy. Cách lạy cũng có
luật lệ cả, từ người bậc cao cho đến bậc thấp xét về vai vế trong họ. Vậy nên
nhiều khi thấy một ông rất già vẫn phải vái sau một người trẻ. Họ tộc là thế,
tuổi tác không quan trọng bằng thứ cấp.
Phần
nghi lễ xong, đợi cháy hết một tuần nhang thì bưng mâm xôi cùng với đầu heo,
con gà xuống chặt nhỏ, chia đều cho các mâm.
Nhớ ngày xưa ăn cỗ ở xủi mả không có bàn ghế mà ngồi trệt
giữa nhà, quây quanh mấy chiếc mâm, có khi là cái nôống (nông phơi). Và tất
nhiên không có chén đũa gì cả, xôi dưới thịt côi (trên). Tôi nhớ cái mâm xôi
thịt lợn mà thấy vui. Ở giữa là xôi chất đầy, xung quanh thịt và lòng gan đã
cắt nhỏ. Xôi đơm đầy tượng trưng cho sự no đủ, thịt thà bao quanh là biểu tượng
sum vầy. Con cháu cứ thế ngồi xếp bàng xung quanh ăn ngon lành. Vừa ăn vừa nói
chuyện thân mật. Anh dù quan to, ông này bà nọ thì khi về làng vẫn phải ngồi
trệt như thế mà ăn. Cách ngồi cũng theo tuổi tác vai vế nữa, người cao tuổi thì
ngồi giữa, con cháu chia ra ngồi hai bên… Kiểu ăn cỗ ở lễ chạp này có thể là
diễn lại đời sống chung chạ của người xưa, qua đó nhắc khéo ta phải nhớ đến tổ
tiên. Ăn như vậy thấy rất vui và cũng cảm thấy ngon hơn. Mâm xôi đến cúng được
cắt 1/3 bưng về, ở nhà các bà các mẹ các chị không được đi xủi mả thì cũng có
ăn miếng xôi cho biết hôm nay là ngày xủi mả, ngày chạp. Nhiều khi nghĩ người
phụ nữ thiệt thòi trong chuyện này, thế nhưng chính họ là người nhớ lễ chạp hơn
cả. Chúng ta yêu quê bởi trong đó nhận ra được những nét đẹp rất riêng, có thể
gọi đó là văn hoá ngày xủi mả thật đúng là văn hoá của đồng ruộng làng quê tôi mà
ít nơi nào có được.
Ngày nay quê tôi đã đổi thay nhiều, lăng mộ xây, lát đá, mồ
mả ông bà gia tộc tập trung lại trong lăng, nền lát xi măng… Thế là cánh đàn
ông chỉ việc sơn màu hoặc vôi ve lại, quét dọn sạch sẽ rồi thắp hương trên các
mộ chí…Chỉ cần vài chục phút là xong. Còn chị em phụ nữ cũng thoải mái hơn vì
có các dịch vụ nấu nướng đưa đến tận nhà. Chỉ có các chị con dâu vất vả hơn tý
chút vì phải lo mâm cơm cúng gia tiên và lo nước nôi, dọn dẹp.
“Xủi mả” ở
quê tôi là thế. Rất vui vì có thể có những người cả năm trời không gặp nhau chỉ
chờ đến ngày này đoàn viên.